skip to main |
skip to sidebar
Hồn ma trinh nữ
Cách nay lâu lắm rồi, ở xóm tôi, người ta hay kể lại một câu chuyện, một
chuyện ma. Là chuyện ma, nhưng ẩn chứa đằng sau những tình tiết ghê rợn
ly kỳ là một mối tình sâu thẳm. Hồi đó chúng tôi còn nhỏ lắm, đứa lớn
nhất trong bọn cũng chỉ tám chín tuổi là cùng. Từ ấy đến nay đã bao
nhiêu năm tháng lần lượt trôi qua. Cái xóm nhỏ ngày xưa - với những túp
nhà mái ngói đơn sơ; với một khoảnh đất thật rộng có nhiều cây cao toả
bóng, nơi đã từng chứng kiến gần như cả một quãng đời thơ ấu cùng bao
trò chơi đdùa của bọn trẻ nhỏ chúng tôi; với những bụi tre um tùm che
giấu nhiều bí mật, đdêm đdêm tiếng mấy thân tre cọ vào nhau rít lên kẽo
kẹt như tiếng ma đưa võng ru con; với cái chuồng ngựa, kề bên là một cái
chõng tre rộng mà ở đó đdêm đdêm Già Bảy hay ngồi, vừa thỉnh thoảng khề
khà nhấp một ngụm rượu trắng trong cái chai ba xị, vừa chậm rãi kể cho
chúng tôi nghe những chuyện ma quỷ thần tiên; với một cây khế cổ thụ mà
trên đó một cô gái đã treo cổ tự tử từ mấy chục năm về trước, đến bấy
giờ vẫn còn làm đám con nít và cả những người lớn nhát gan mê tín nghe
lòng gờn gợn một nỗi sợ sệt mơ hồ khi đi ngang dưới bóng cây um tùm rậm
rạp của nó lúc đdêm khuya vắng; với cái giếng nước mà thành giếng xây
bằng đá xanh đã phủ đầy rêu xám, mỗi chiều dân trong xóm tụ tập ra đó để
gánh nước, để chuyện trò tán tỉnh, cãi cọ, cười đdùa...- Cái xóm nhỏ ấy
đã biến mất không còn một chút tăm hơi, thay vào đó là những căn nhà
hiện đại lạnh lùng vô cảm.
Câu chuyện đó đã có nhiều người kể, mỗi người một kiểu, nhưng chỉ có Già
Bảy là người kể hay nhất, và ông cũng chỉ kể một lần duy nhất. Những
người khác phần lớn chỉ chú trọng thêu dệt, tô vẽ thêm vào những tình
tiết ma quái rùng rợn, nhưng loi ke cua ho không có đầu đuôi, không gây
xúc động. Chuyện của Già bảy kể thì khác hẳn.
Ông già lúc ấy chắc đã bảy mươi hơn, lưng đã hơi khòm, tóc râu đều bạc
phơ phơ, nhưng vẫn còn mạnh lắm. Ông sống độc thân không vợ không con,
làm nghề đánh xe thổ mộ. Con ngựa của ông chắc cũng già như ông, nhưng
đôi khi nổi hứng, ông thắng yên cương rồi cưỡi nó phi nước kiệu vòng
quanh khu xóm nhỏ. Con ngựa già tung những bước nom vẫn còn dẻo dai
duyên dáng lắm. Còn ông thì tóc râu bay phấp phới, dáng dấp trông hiên
ngang như một vị hiệp khách anh hùng. Ông đã kể cho chúng tôi nghe nhiều
câu chuyện, nhiều lắm, nhưng nhiều chuyện đã nhạt nhoà trong ký ức của
tôi. Ngót ba mươi năm rồi, câu chuyện vẫn còn bám mãi, đeo đẳng trong
trí nhớ vốn không xuất sắc lắm và lộn xộn vô nguyên tắc của tôi là câu
chuyện mà tôi vừa nói ở trên. Ngày càng lớn, tôi càng nhận ra vẻ đẹp bi
thương tha thiết ẩn nấp dưới những tình tiết hoang đường ma quái khó
tin, và cũng nhận ra Già Bảy chính là một nhân vật chính của câu chuyện
đó.
Bây giờ, xin bạn hãy thả trí tưởng tượng cùng tôi, để hoá thân thành
những cô bé, chú bé con con, ngồi trên chiếc chỏng tre lớn quanh một ông
già,trong một đdêm mùa hạ nhiều gió và nhiều sao sáng. Dưới đất, cách
dăm bước chân, là một đống un toả mùi khói hăng nồng ngan ngát. Đám trẻ
con ấy sợ sệt ngồi nép sát vào nhau. Chúng đăm đăm nhìn những đốm lửa
nhỏ thỉnh thoảng bùng lên trên đống un, lắng nghe giọng kể chuyện trầm
trầm của ông già, hoà với tiếng những thân tre kẽo kẹt, tiếng gió lao
xao trên những tàng cây, tiếng ếch nhái râm ran trong các vũng nước lầy,
tiếng thở phì phò và tiếng gõ móng của con ngựa vào thanh chắn gỗ, lòng
hồi hộp, mồ hôi lạnh tuôn ướt lưng áo, vừa sợ mà cũng vừa thích thú đến
run người...
... Xóm này, hơn năm mươi năm về trước, mấy cháu à, là một khu rừng mai
rậm rạp. Hồi ấy đất đai còn rộng 'minh' mông, nhà cửa dân cư ở miệt Chợ
Lớn, Sài Gòn thì nhiều, còn vùng ngoại ô này, đi rã cẳng mới gặp đôi ba
túp nhà tranh xiêu vẹo. Lúc lên đây, qua 1 còn trẻ lắm, chừng mười tám
mười chín tuổi. Quê qua ở Cà Mau. Qua từ miệt Năm Căn theo đám thương hồ
lên Chợ Lớn là để đi chơi cho biết, nhưng lên đây rồi, qua không thể
quay về quê quán cũ được nữa. Số phận chắc đã gắn qua vào cái rừng mai
của năm mươi mấy năm trước, giờ là cái xóm nhỏ này cho đến lúc lìa
đời...
Vậy đó, cái rừng mai này hồi đó không có nhà dân. Thi thoảng, chỉ có dân
ở các vùng lân cận đến chặt vài nhánh mai đem về nhà chưng hay lên chợ
bán vào dịp Tết. Thú rừng, như nai mễn, chồn cáo, lúc ấy còn nhiều vô
kể. Lũ cọp thì đã dạt về mé rừng Đồng Nai, không còn ở gần đó, vì xe cộ
người dân qua lai nhiều, nhộn nhịp. Chúng vốn không thích nơi đông đúc
ồn ào.
Năm đó có một người trạc trung niên tới dựng một túp lều tranh ở giữa
rừng mai để trú ẩn. Ông là một nhà nho, một chí sĩ kháng Pháp gốc người
miệt Vĩnh Long bôn đdào sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Theo lời đồn
đại, ổng giỏi lắm mấy cháu à, ổng là người tài kiêm văn võ, thơ phú của
ổng đọc lên nghe muốn khóc, muốn xông pha chinh chiến, muốn làm một cái
gì đó thật lớn lao. Còn võ nghệ của ổng thì khỏi nói, ổng múa kiếm loang
loáng không thấy thân người đâu nữa, cái nhánh cây khế đằng kia, mấy
cháu thấy hôn, cao cách mặt đất hơn ba thước, ổng vỗ đdùi một cái là phi
thân lên đứng trên đó như chơi... Ổng chạy lên vùng Gia Định mai danh
ẩn tích, mang theo một cô con gái tuổi chừng đôi tám. Nghe đồn cô ta đẹp
lắm. Đẹp mà thanh cao trong trắng dịu hiền, tỷ như nàng Kiều Nguyệt Nga
mà qua đã kể cho mấy cháu nghe vậy đó. Hai cha con ở đó lần hồi, cô gái
thêu khăn, nhà chí sĩ viết những bức câu đối hay vẽ những bức thư họa
mang ra chợ bán kiếm tiền độ nhật.
Cũng đồng dạo ấy, có một chàng trai tuổi chừng đôi chín làm lao công bốc
vác ở bến Nhà Rồng. Việc làm thì cực khổ mà hay bị mấy thằng cai người
Việt và người Pháp đánh đập chửi rủa vô cùng nhục nhã. Một bữa chiều,
thằng cai Pháp đánh một người bạn của chàng, người đó đang bệnh nhưng
không dám xin nghỉ nên làm việc uể oải. Nó đánh bạn của chàng thê thảm
quá, chàng dằn lòng không được nên lượm một khúc cây xáng vô đầu nó. Nó
ngã lăn quay bất tỉnh, còn chàng thì bỏ chạy tháo thân. Chàng chạy vô
phương hướng, cứ thấy đường ngang ngõ tắt gì là cứ đâm vào, chạy mãi cho
đến giữa khuya thì tới rừng mai. Chàng vừa mệt vừa đói, đã tính kiếm
một cây nào đó lớn lớn một chút để trèo lên nghỉ đề phòng thú dữ, thì
bắt gặp một ánh đdèn le lói giữa rừng mai. Chàng lần mò đi tới đó, thì
ra chính là túp nhà tranh của hai cha con nhà chí sĩ. Chàng đừng ở ngoài
một lúc, lắng nghe động tịnh. Bên trong chợt có tiếng ngâm thơ sang
sảng của nhà chí sĩ. Thơ rằng:
Đêm nằm trằn trọc không an
Tâm can uất nỗi giang san khốn cùng
Một thời vùng vẫy dọc ngang
Quét ngang ngọn kiếm bao thằng đầu rơi
Hận đời sao nỡ trêu ngươi
Để con quốc mãi bên trời lưu vong
Đêm nay ta thắp hương lòng
Nguyện còn hơi thở vẫn còn chí cao.
Tiep theo va Het....
Chàng trai nghe thấy mấy câu này, biết trong nhà là người có chí khí,
yêu nước thương nòi. Chàng không còn e ngại nữa, bèn kêu cửa. Nhà chí sĩ
bước ra, hơi kinh ngạc. Chàng bèn kể rõ đầu đuôi hoàn cảnh của mình.
Nhà chí sĩ gật đầu mời chàng vào, gọi con gái sắp cơm rượu mời chàng. Từ
đdêm đó, chàng trai ở lại cùng hai cha con họ. Ngày thì chàng đốn củi
mang vào chợ bán hoặc săn mấy con thú nhỏ để làm thức ăn, đdêm thì học
võ học văn do nhà chí sĩ thân truyền.
Đó là những ngày rất đẹp, thơ mộng lắm mấy cháu à. Chàng trai tuy ít
học, nhưng mà lòng dạ chân chất thẳng ngay, tướng mạo cũng hiên ngang
đẹp đẽ. Vả chàng rất thông minh cầu tiến, nên được sự dạy bảo dìu dắt
của nguoi cha, chẳng bao lâu chàng cũng vỏ vẻ mấy chữ Hán và đọc thông
viết thạo tiếng Quốc ngữ, tức là tiếng Việt của mình bây giờ đó các
cháu. Chàng như vậy, mà ở một nơi vắng vẻ quạnh hiu, lâu lâu mới tiếp
xúc với người, dĩ nhiên trong lòng cô gái cũng phát sinh tình cảm. Còn
chàng trai thì khỏi nói, ngay từ đdêm đầu tiên gặp mặt, lòng chàng đã
nặng một mối tình. Cả hai thầm mến mộ nhau, nhưng vẫn giữ một niềm kính
trọng. Những đdêm thanh trăng tỏ, nàng pha trà ngon đem ra trước sân mời
cha và chàng uống, rồi nàng ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng cũng góp vào
câu chuyện hoặc ngâm mấy vần thơ.
Than ôi, mấy cháu biết không, thường ở đời, niềm hạnh phúc thì thoáng
qua mau, mà nỗi bất hạnh trái ngang thì nhiều không xiết kể. Ba người đó
sống êm đềm như thế được hơn một năm trời thì tông tích của nhà chí sĩ
bị bại lộ. Bữa nọ, đang khi chàng trai mang củi ra chợ bán, quân Pháp và
Việt gian bí mật bố ráp vây bọc khu rừng để bắt hai cha con nhà chí sĩ.
Vì nhà chí sĩ quyết không chịu lọt vào tay giặc, nên ông đã bị bắn chết
sau khi chống cự giết được mấy thằng. Còn nàng, cô gái xinh đẹp dịu
dàng như mây như suối đó, cũng đã tự tuyệt mạng mình, không để bọn giặc
làm ô uế.
Vì ở đó không có cư dân nên sự việc hầu như không ai biết cả, chỉ có
những người đi làm rừng đâu đó gần bên nghe thấy tiếng súng rộ lên trong
một lúc. Nhưng thời ly loạn mà, đất nước đầy bóng giặc, tiếng súng đâu
phải là cái gì quá bất thường. Chiều hôm đó, chàng trai quay về. Chàng
kinh ngạc và đau đớn vô cùng khi thấy túp nhà giờ chỉ còn là một đống
tro nghi ngút khói. Xác của người cha nằm trước sân nhà. Còn nàng, người
yêu trong mộng của chàng thì biến mất. Chàng cố nén đau thương đi rảo
quanh khu đó để tìm nàng. Không khó khăn gì, chàng bắt gặp nàng, giờ chỉ
còn là một cái xác không hồn, treo lủng lẳng trên cành một cây khế.
Chính là cây khế cổ thụ này đó, các cháu à. Không ai dám đốn nó, dù cả
cánh rừng mai ngày xưa đã bị chặt phá hết rồi. Trong bàn tay nắm chặt
trắng bệch không chút máu của nàng, chàng tìm thấy một manh áo vải ghi
mấy dòng tuyệt mệnh, cầu chàng lo toan giùm việc chôn cất cho hai cha
con nàng. Thì ra khi thấy cha khó lòng thoát khỏi, nàng đã quyết ý quyên
sinh để khỏi lọt vào tay giặc. Náng lén chạy đến bên gốc khế, viết mấy
lời để lại cho chàng vì đoán biết là chàng sẽ trở về, rồi treo cổ tự vận
ngay.
Chàng trai gạt nước mắt lo việc chôn cất cho hai cha con. Chàng chôn
chung cả hai ở một góc rừng mai, bên một con suối nhỏ, gần cây khế già.
Con suối ấy bị cạn và bị lấp mất cách đây cũng hai chục năm rồi. Sau đó,
chàng bỏ đi đâu không ai còn biết.
Khoảng mười lăm năm sau đó, rừng mai hoang vắng xưa giờ đã bị khai phá
đi nhiều, chỉ còn một góc nhỏ cách xa đường quan lộ. Dân di cư tứ xứ đến
lập ấp cất nhà, khu rừng mai đã không còn quạnh hiu vắng vẻ. Nhưng cũng
từ đó, khu rừng mai trở nên linh thiêng huyền bí. Người dân đồn đại với
nhau về nhiều hiện tượng quái dị ghê hồn. Vì ở một góc rừng, nơi có một
cây khế già cổ thụ, ước đến trăm tuổi rồi, ai đến đó chặt phá mai hay
muốn cất nhà ddều không được. Dao búa sẽ tự động chặt vào chân vào người
họ. Nhà dựng lên lợp mái chưa xong chợt bị những cơn gió xoáy kinh
khủng thổi tan hoang. Những lúc hoàng hôn chạng vạng, người ta thường
thấy thấp thoáng có bóng một cô gái còn trẻ, tóc thề buông xõa đi phơ
phất như lướt trên ngọn cỏ, tà áo lam kiểu xưa bay phấp phới. Chỉ thấy
thoáng qua, như một ảo ảnh, như một lúc hoa mắt nhìn lầm, chứ chẳng ai
trong thấy rõ khuôn mặt của cô gái đó. Đêm đdêm, khách bộ hành có việc
đi ngang thường nghe thấy có tiếng trong trẻo ngâm thơ, rồi bỗng tiếng
cười the thé ma quái, rồi tiếng khóc não nùng. Tiếng khóc cười không
lớn, nhưng xuyên qua thời gian khoảng cách, đâm vào nhoi nhói đôi tai
của cả những người cách đó hàng dặm đường. Người dân không rõ đầu đuôi
câu chuyện, nên họ chỉ đoán đây là một oan hồn chưa siêu thoát được hiện
về quấy phá. Họ sợ sệt lắm. Rồi sau đó, họ lập một cái miễu nhỏ ở dưới
gốc cây khế để tỏ lòng tôn kính và để cầu nguyện cho oan hồn thôi không
quấy phá.
Một buổi chiều, có một người đdàn ông tìm đến khu dân cư đó. Nhìn ổng
chẳng ai đoán được là bao nhiêu tuổi. Nét mặt dầu dãi phong trần, những
nếp nhăn ở đuôi mắt và ánh nhìn đăm chiêu lặng lẽ làm người ta đoán ổng
dễ đã bốn mấy năm mươi. Nhưng đôi khi, như lúc ổng nhìn một đứa trẻ con
chẳng hạn, thì trong đôi mắt già nua mệt mỏi đó chợt ánh lên một nét
thật hồn hậu trẻ trung, và những lúc ấy trông ổng lại chỉ trạc ba mươi.
Ổng hỏi chuyện những người dân làng, rồi ra chỗ cái miễu thắp mấy nén
hương, thì thầm khấn nguyện gì đó rất lâu. Theo mấy đứa nhỏ tò mò lén
lút theo dõi ổng nói lại, thì hình như lúc ấy ổng khóc, vì đôi vai ổng
run rẩy từng hồi.
Người đdàn ông ở lại bên cội khế già suốt đdêm hôm ấy. Dân làng kể lại
với nhau rằng đdêm ấy nghe có tiếng xì xào khóc cười văng vẳng vọng đến
từ cây khế, tiếng xì xào đó kéo dài đến quá nữa đdêm, rồi tắt hẳn khi
tiếng gà gáy canh đầu vừa cất lên. Sáng hôm sau, người đdàn ông bắt đầu
đdào tìm gì đó ở gần gốc khế. Dân làng có kẻ bạo dạn tò mò đến gần coi
thử. Rốt cuộc mới biết ổng đdào tìm hài cốt của người thân. Ổng moi từ
dưới hố lên hai bộ hài cốt trơ trọi, bấy giờ thịt đã rã nát, chỉ còn
những xương bắt đầu hoai mục. Ổng nhờ bà con lối xóm giúp một tay để
dựng một giàn hỏa thiêu hai bộ hài cốt. Sau đó, ổng gom mớ tro cốt đi
đâu đó, hình như là rải xuống một dòng sông, rồi quay trở lại. Từ đó,
ổng dựng nhà gần bên cây khế và ở lại không đi nữa. Cũng từ đó bóng ma
áo lam không còn xuất hiện, và không ai còn nghe tiếng ngâm thơ, cười
khóc não lòng của hồn ma trinh nữ nữa. Có đôi người lớn tuổi trong làng
đã được người đdàn ông đó kể lại sự tích về hồn ma nọ, trong những đdêm
trời trăng sáng ngồi uống rượu tâm tình, vì ổng chính là chàng trai dạo
trước. Nhưng những người đó nay cũng đã qua đời, nên câu chuyện thật hư
ra sao không một ai biết được. Nghe đồn là ổng đã biệt tích trong mười
lăm năm đó để đi truy tìm kẻ thù, giết lần lượt từng đứa trong bọn
chúng. Rồi sau đó ổng tham gia kháng Pháp cho đến khi bị một vết thương
nặng không thể tiếp tục tung hoành chinh chiến, nên mới quay về chốn
cũ... Chuyện nghe đồn là vậy đó, các cháu à ...
Câu chuyện đã dứt. Đống un cũng đã tàn hết nửa phần. Sao khuya lấp lánh
đã lên cao. Bọn trẻ con lí nhí chào Già Bảy rồi chia tay nhau về nhà
ngủ. Mí mắt chúng bấy giờ đã nặng nề xụp xuống vì mệt mỏi và buồn ngủ
sau một ngày chơi đdùa thả sức. Nhưng lòng chúng còn mãi xôn xao xúc
động với câu chuyện thê lương.